Nói đến mẹ thì luôn liên quan con. Tình Mẫu Tử có gì đó rất kỳ diệu, hầu như chúng ta không thể hiểu hết. Dù người con tật nguyền, không đẹp, thậm chí là hư hỏng, phản bội, nhưng vì “nước mắt luôn chảy xuôi” nên người Mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ và vẫn yêu thương hết lòng. Người bàng quan có thể trách người Mẹ là nhu nhược, là sợ sệt, nhưng ai đã làm Mẹ mới khả dĩ hiểu thấu. Thế mới là Tình MẫuTử đích thực – trong đó Tình Phụ Tử đích thực cũng được “hiểu ngầm”. Không thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vì người Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.
Truyện kể rằng có một loài chim đặc biệt rất thương con đến quên cả bản thân mình. Khi không có mồi cho con ăn, loài chim này lấy chính thịt mình để cho con ăn. Loài vật còn như vậy huống chi con người – loại sinh vật cao cấp nhất. Xin được mở ngoặc: “Giữa năm 1974, khi Ðức Giám Mục Giuse Lê Văn Ấn (GM tiên khởi của giáo phận Xuân Lộc) qua đời, loài chim “lấy thịt mình nuôi con” kia đã đậu trên đỉnh nóc nhà thờ chính tòa Xuân Lộc từ khi ngài qua đời đến lúc an táng xong. Người ta cho đó là “dấu lạ” vì hợp với khẩu hiệu Giám Mục của ÐGM Ấn là “Hãy Giết Mà Ăn” (*).
Thánh Kinh luôn rõ ràng và chính xác, nghĩa là những người làm cha làm mẹ – và những “người lớn” có trách nhiệm chăm sóc những “người “nhỏ” – cũng phải thực hiện trọng trách của mình một cách trọn vẹn. Cha Mẹ sửa dạy con cái hoặc người trên có sửa dạy người dưới thì phải sửa dạy bằng tình yêu thương.
Nói về Tình Mẹ, người ta có thể nhớ ngay đến ca khúc Lòng Mẹ, một ca khúc bất hủ của cố nhạc sĩ Y Vân, viết về chính người Mẹ của ông: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Lòng mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào. Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng mẹ yêu…“. Giai điệu đơn giản mà có hồn, ca từ đẹp và nhẹ nhàng như chất nữ tính dịu dàng của người Mẹ vậy. Còn thi sĩ Hồ Dzếnh lại mơ ước:
Kiếp sau xin lại làm người
Ðể nghe non nước vọng lời mẹ ru
Ðược làm người là niềm hạnh phúc lớn, được nghe lời ru của Mẹ cũng là một niềm vui sướng. Gà con được núp dưới cánh gà mẹ thì không còn sợ diều hâu. Con ở bên Mẹ thì không chỉ an toàn mà còn hạnh phúc, bình an cả tinh thần và thể lý.
Gà mẹ xòe cánh
Ðể đánh diều hâu
Ngọt ngào tình mẹ
Thương con dạt dào
Một em bé nói với người mẹ: “Mẹ là người tốt nhất”. Em bé này thật may mắn vì em rất hạnh phúc khi có được người Mẹ “số dzách” như thế. Bất kỳ ai sống an toàn dưới “đôi cánh” của Mẹ thì đều được an tâm, được tận hưởng nền hòa bình thực sự.
Tình mẹ yêu thương
Biển trời lai láng
Bên mẹ nép cánh
Con sống an vui
Thế giới luôn xảy ra những biến cố, hầu như hằng ngày, do đó thế giới luôn khao khát hòa bình đích thực để mọi người được vui sống. Thế giới thiếu hòa bình vì người ta còn tranh quyền lợi, giành vật chất, còn lắm Tham-Sân-Si (theo quan niệm Phật giáo); người Kitô giáo thiếu bình an tâm hồn vì còn hướng chiều tội lỗi, vẫn tranh giành quyền lực. Người ta muốn được phục vụ chứ không muốn phục vụ theo tinh thần Ðức Kitô, muốn sáng danh con chứ chưa thực sự muốn sáng Danh Chúa. “Cái tôi” dù đáng ghét (như Pascal diễn tả) nhưng “nó” vẫn trỗi dậy bất kỳ lúc nào khiến cho tính ích kỷ “lớn” hơn tình người, muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình, muốn được Thiên Chúa xót thương nhưng lại không thể hiện Lòng Chúa Thương Xót. Quả thật, Chúa rất ghét “những người giả hình” (x. Mt 23:1-12).
Thiếu Tình Chúa và vắng Tình Mẹ thì chắc chắn không thể có hòa bình. Muốn tận hưởng hòa bình thì phải có công lý, đồng thời phải cầu nguyện: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết Ơn Cứu Ðộ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ðức Kitô đã từng xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Thánh vịnh 67 nói thêm: “Thiên Chúa cai trị toàn cầu theo lẽ công minh, Ngài cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này” (Tv 67:5). Ký thác đường đời cho Chúa, cũng là tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót, là thể hiện đức tin sống động. Quả thật, đời người chỉ là “cát bụi”, chẳng đáng gì:
Thế gian ngắn ngủi – nơi sinh ký
Thiên quốc vĩnh hằng – chốn tử quy
Chân nhận như vậy để có thể chấp nhận bản chất yếu đuối của kiếp người. Chúa giáng sinh làm người là dấu hiệu “báo động đỏ” của thời cánh chung. Thật vậy, “khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử“
(Gl 4:4-5). Không chỉ vậy, để chứng thực chúng ta là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng chúng ta mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:6). Vì thế, chúng ta “không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:7). Người ta có thể từ con, còn Chúa lại nhận nghịch tử làm hiền tử hoặc con yêu. Chúa quá “ngược đời”, nhưng quá kỳ diệu và quá tuyệt vời! Chúng ta chỉ là những “tử tội khốn kiếp” mà lại được nhận làm con cái. Còn hạnh phúc nào hơn chứ? Ðó vừa là điều kỳ diệu vừa là “ẩn số” của tình Cha, nghĩa Mẹ.
Hang đá là cảnh gia đình hạnh phúc, dù đó là cảnh nhà “nghèo nhất thế gian”. Trong đó “cảnh nghèo” đó có cả Tình Mẹ và Tình Cha. Những người đến thăm “gia đình nghèo” này cũng lại là những người “nghèo rớt mồng tơi”: Các mục đồng. Thánh Luca kể rằng sau khi các mục đồng được thiên sứ báo tin, “họ liền hối hả ra đi. Ðến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Thánh nhân kể rất tỉ mỉ. Các mục đồng có phước vì đã ghé thăm “tệ xá” của Thánh Gia Thất. Còn ngày nay, người ta (cả đời và đạo) chỉ thích “thăm viếng” các biệt thự, các villa, các nhà cao cửa rộng, các đại gia, những người “thở ra tiền, cười ra bạc, khạc ra vàng, sàng ra đô-la”. Và người ta có nhiều “cách biện hộ”.
Chúng ta phải học động thái ít nói và e ấp đầy nữ tính của Ðức Maria. Tại sao? Vì Ðức Mẹ nghe mục đồng kể lại điều đã được nói về Hài Nhi, rồi Ðức Mẹ “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2:17-19). Kinh Thánh tường thuật: “Khi ra về, các mục đồng vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với hoï” (x. Lc 2:20). Họ nghèo mà hạnh phúc, họ hạnh phúc vì họ được gặp Vua Nghèo Giêsu, thế là họ bình an, nghĩa là họ hưởng nền hòa bình đích thực. Ðúng như Ca đoàn Thiên Thần hát vang trong Ðêm Giáng Sinh:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (Lc 2:14)
Chỉ có người lòng ngay mới là người được Chúa thương, chỉ có người thiện tâm mới được tận hưởng nền hòa bình chân chính đúng nghĩa. Người đó là ai? Là người noi gương sống của Thánh Nhi Giêsu, Ðức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.
Thôn nữ Maria sinh Con Trẻ, bắt đầu thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa. Sau 8 ngày, đến lúc phải làm lễ cắt bì cho Con Trẻ theo luật Do Thái, Hài Nhi được đặt tên là Giêsu, tên mà sứ thần đã đặt cho Em Bé trước khi Em Bé được thụ thai trong lòng Thân Mẫu. Bắt đầu có niềm hạnh phúc làm Mẹ thì cũng là lúc bắt đầu chuỗi ngày gian khổ, thậm chí là đẫm nước mắt… Nhưng Ðức Mẹ vẫn không một lời than thở, chỉ im lặng, hành động, và trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa.
Người xưa nói: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ“. Một quá trình liên kết rất lô-gích. Hòa bình trước tiên phải phát xuất từ tâm hồn mỗi cá nhân, từ đó mới có thể tiếp tục mở rộng biên độ.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn “biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” (Thánh Phanxicô Assisi), luôn là “khí cụ bình an của Chúa”, biết bảo vệ công lý để có thể kiến tạo hòa bình đích thực. Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con biết “nói ít và làm nhiều” như Mẹ, để có thể vãn hồi hòa bình ngay từ trong gia đình hàng ngày. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Trầm Thiên Thu
(*) Ai đó làm 2 câu thơ độc đáo: “Cây XUÂN nảy LỘC đầu Sáu sáu, Quả ÐỨC thành NHÂN giữa Bảy tư” – nghĩa là GP Xuân Lộc được thành lập đầu năm 1966, ÐGM Giuse Lê Văn Ấn qua đời giữa năm 1974.
Nguồn tin: mehangcuugiup.net