Icon Collap
...
Trang chủ / Phép lạ nơi con thuyền vượt biên trên biển

Phép lạ nơi con thuyền vượt biên trên biển

Có lẽ không biến cố nào lớn hơn trong đời tôi bằng những ngày bỏ quê hương để trốn đi, trong đó tôi nhìn thấy ơn Đức Mẹ đã che chở tôi và gia đình. Tôi xin kể lại để một lần được công khai cảm tạ người Mẹ đã hằng nâng đỡ và cứu vớt chúng tôi.

Kế hoạch của chúng tôi định vượt trạm công an biên phòng tại cửa Gành Hào không được chu đáo và an toàn, nên chuyện quyết định ra ghe vào tháng ba năm 1981 đã đình lại để chờ sự liên lạc của Tùng, vì Tùng là người chuyên môn làm môi giới cho tàu vượt biên ra cửa biển từ bấy lâu nay.

Thời gian chờ đợi và liên lạc thấm thoát cũng gần 5 tháng. Sau cùng vào ngày rằm tháng 8 năm đó thì chồng tôi được lệnh cho ghe di chuyển từ Hộ Phòng đến Cà Mau, ngụy trang và ra đến cửa sông Ông Đốc. Trên ghe có vợ chồng chủ ghe và đứa con trai nhỏ cùng với vợ chồng tôi và cháu gái đầu lòng của chúng tôi, lúc đó cháu vừa được 4 tuổi.

Trong ghe chúng tôi chở mấy ngàn cây mía để ng là ghe buôn bán. Khi ghe ra đến bến tàu, nơi thoát đưa rước ra cửa qui định, thì mấy ngàn cây mía được hủy bỏ lên bờ, và người từ hai bên bìa rừng đổ lên ghe tấp nập. Lúc đó không đếm nổi là bao nhiêu người. Ghe không còn chỗ để duỗi chân, người chêm ép nhau như mắm. Tôi nghe Tùng nói chuyện với anh bạn chủ ghe và chồng tôi là: “Không kiếm được tài công và thợ máy. Các anh tính sao, có đi hay không?” Lúc ấy trời tối đen như mực, chung quanh toàn là rừng. Trước chiếc ghe chở người vượt biên chúng tôi, là môt chiếc xuồng máy đôi tôm nhỏ dẫn đường, trên đó có dăm ba người mang súng đạn.

Tôi biết đã vào đường này ắt phải đi, dầu không có tài công và thợ máy. Thế là chồng tôi lên chức tài công bất đắc dĩ, và anh bạn chủ ghe phải tiếp chồng tôi châm dầu nhớt máy, nên cũng gọi là thợ máy luôn.

Hừng sáng hôm ấy, con tàu của chúng tôi lọt ra cửa biển. Bọn đưa rước quay xuồng máy trở vào bờ. Từ phía chân trời, mầu hồng lợt bắt đầu xuất hiện, báo hiệu bình minh đã sang. Không khí tự do và trong lành như chưa bao giờ có trong cuộc sống tôi kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi phải hít thở không khí này vào cho thật đầy buồng phổi, rồi chuyện gì hãy tính sau, như là cuộc đời đi về đâu, hay là chuyện gì sẽ xảy ra cho cuộc sống mai này?

Suốt một buổi sáng biển đẹp và lặng yên như tờ, nhìn chung quanh ai cũng hớn hở ra mặt. Tôi nghe nhiều người tâm sự với nhau thật vui vẻ. Có anh bạn bảo rằng anh đã đi vượt biên mấy lần rồi, lúc thì bị bắt nằm tù mấy tháng, nhờ lo lót, chạy chọt đúng chỗ mới ra được. Khi thì tổ chức bị bể dọc đường, may mắn mới trốn thoát được. Có chị xúc động đến rơm rớm nước mắt, chị nói, chuyến này may mắn thiệt, chắc chắn chuyến này tôi sẽ gặp chồng tôi rồi. Anh là lính Hải Quân cũ, theo tàu qua Mỹ từ năm1975…” Ôi thôi, biết bao câu chuyện vui khác mà tôi được nghe. Tuy con tàu vượt biên này mới đưa chúng tôi rời cửa biển được có một chặng đường ngắn, vì rặng cây xanh trong bờ của cửa sông Ông Đốc vẫn còn lờ mờ đó, thế mà nỗi vui mừng và không khí tự do đã tràn đầy trong lòng chúng tôi. Chắc chắn là không một ai còn lo đến ông tổ trưởng gọi chiều nay phải đi họp công tác thủy lợi; không còn lo ông công an khu vực bảo ghi lại lý lịch cá nhân cho rõ ràng vì có dính dấp tới ngụy quân, ngụy quyền khi đi xin việc làm nuôi sống bản thân v..v.   Bây giờ tất cả chỉ còn là màu xanh của trời, của nước, màu hy vọng tuyêt vời của lòng… Đây là giờ phút được xổ lồng khỏi sự kìm kẹp, để thấy được trọn vẹn cái nghĩa của hai chữ “tự do” trong cuộc sống mà chính mình bị cướp mất.

Niềm vui thì ai cũng muốn kéo dài vô tận, nhưng chẳng ai được toại nguyện cả. Sóng gió lại bắt đầu đến với cuộc đời, vì sau một buổi sáng tuyệt đẹp, biển lặng như tờ đó thì trưa đến, gió bắt đầu thổi mạnh, mây đen từ đâu ùn ùn kéo về bao phủ cả góc trời. Sóng trắng xoá, từng lượn bỏ vòi lên cao nghệu như muốn nuốt chửng con tàu bé nhỏ của chúng tôi. Nước tràn lênh láng vào tàu. Những người trên tàu bắt đầu hoảng sợ, xôn xao hỗn loạn ầm lên. Tiếng la khóc của trẻ nhỏ, tiếng người lớn la lối cãi vã nhau vì dành những thùng đựng xăng dầu để làm phao cấp cứu cho cá nhân họ.

Trên tàu có khoảng một trăm người, mà thùng đựng dầu chỉ có hơn chục cái thôi, ai có ai không bây giờ? chắc chắn sẽ có một trận xô xát giật giành. Nước vào tàu thì không ai lo tát ra, mà cứ định ôm thùng nhảy xuống biển. Trong cảnh hỗn loạn như vậy, tôi nghe tiếng chồng tôi la lớn từ phòng lái vọng vào: “Đừng có sợ, hãy lo tát nước ra đi. Các anh liệu ôm thùng nhảy xuống biển là sẽ sống đuợc hay sao?”

Tiếng la lớn của chồng tôi đã làm mọi người lấy lại bình tĩnh, nên họ đã cùng nhau lo tát nước ra khỏi tàu. Cám ơn trời đất đã làm cho họ biết chia sẻ trong lúc khốn khó này. Chồng tôi không biết lúc đó như thế nào, khi một mình phải lèo lái con thuyền trong cơn phong ba bão táp như thế, một tài công bất dĩ, chỉ biết đem con tàu từ Hộ Phòng đến Cà Mau bằng đường sông, bây giờ trở thành tài công ra biển cả. Khoảng vài ba phút sau đó, tôi lại nghe tiếng chồng hỏi tôi vọng vào:

– “Xin hỏi dùm, ai là người lớn tuổi trong ghe, đạo gì? Hãy đọc kinh dùm”

Giọng chồng tôi lúc đó thật là nghiêm trọng, đã làm cho tôi phải rùng mình, nổi da gà hết cả người. Rồi ai nấy đều tụng niệm. Kẻ đạo Phật, người đạo Chúa, tất cả đều cầu nguyện cho được bình yên, tai qua nạn khỏi…Không biết có phải nhờ thế mà con tàu nhỏ xíu này chở cả trăm người đã tự dưng biết nương theo sóng gió mà ra khơi, phút chốc đã mất hút bến bờ, giống hệt như những chiếc tàu lớn chuyên nghiệp vượt biển, mặc dù trời đang giông bão dữ dội.

Lúc đó, chắc ít ai nghĩ đến sự linh thiêng của lời cầu nguyện. Tất cả đọc kinh để trấn an lòng mình, để khỏi phải suy nghĩ mông lung, để quên đi bão táp. Có người lạy cả chồng tôi xin cứu giùm mạng sống mọi người trên tàu, vì cứ tưởng là đã gặp được tài công thứ kinh nghiêm nhà nghề rồi.

Đến nửa đêm đó thì hệ thống bơm nước để giải nhiệt máy bị hư, mọi người phải thay nhau múc nước đổ vào máy thay bơm. Sóng gió và sợ hãi làm mọi người quá mệt mỏi nên không còn nghe tiếng cười nói nữa. Cơn lạnh và đói bắt đầu hoành hành. Có người biết lo xa, họ mang theo kẹo bánh chanh đường v.v… còn như chúng tôi thì bận rộn, chạy đôn chạy đáo lo cho chuyến vượt biên, phần thì ỷ y đã có mấy ngàn cây mía trên ghe, lại còn gạo thóc, soong nồi mang theo. Nhưng mía thì bị thảy lên bờ để chở người, và gạo củi xoong nồi thì giờ đã bị sóng nước biển làm ướt hết rồi. Cũng may còn vài chục cây mía lúc ra cửa sông dùng để lót chỗ ngồi, thế là chia nhau mỗi người một khúc ngậm lấy nước ngọt mà cầm cự đôi ba ngày. Phần chồng tôi, sau một đêm đứng chịu sóng gió một mình đã thấm mệt. Nhưng chẳng có ai thế giùm để nghỉ ngơi giây lát, vì mỗi khi có người thay tay lái thì chiếc tàu tròng chành như muốn lật úp. Sợ qúa, mấy người trên tàu phải năn nỉ chồng tôi trở lại tay lái. Trong lúc đó cũng có một số khách của Tùng gởi đi lúc ra cửa sông, cứ tưởng là chồng tôi đã lấy tiền vàng để làm tài công cho tàu này, nên họ hăm he sẽ thả chồng tôi xuống biển, nếu không chịu cầm lái con tàu này đến bến bờ.

Thế thì dù có mệt mỏi đến đâu, chồng tôi cũng phải đứng chịu tay lái, vì tình ngay mà lý gian. Cũng để cho sóng gió đừng lôi ông tài công tài giỏi này xuống biển bỏ họ. Anh em trên tàu đã chia phiên nhau giữ hộ hai bên cánh tay chồng tôi để khỏi bị té và kiệt lực. Họ còn dùng dây cột bàn chân của chồng tôi vào cây điều khiển bánh lái tàu để khỏi vuột sút ra. Cứ như thế tàu nương theo sóng gió mà đi.

Đến ngày thứ năm thì trên tàu xảy ra chuyện chẳng may. Bắt đầu là ống quần của một anh trên tàu bị máy buộc vào và đập nát ống xương chân. Thật là đau đớn. Anh kêu la suốt ngày, qua hôm sau đứa con của anh lại bị chết vì đói khát. Đến ngày thứ 7 lênh đênh trên biển, một cơn mưa kéo đến. Mọi người tự dùng miếng nylon nhỏ của mình để hứng nước. Tôi cũng cố đứng dậy để kiếm ít nước mưa cho con, thì thình lình một cơn sóng đập mạnh vào mạng tàu trong lúc tôi chưa kịp giữ thăng bằng nên đã ngã té. Thế là thai bị chấn động, và sau đó tôi chuyển bụng sinh một cháu trai, trong khi tàu đang lênh đênh giữa biển khơi này. Cháu ra đời và anh bạn là lính quân y cũ biết chút căn bản về sinh đẻ, đã dùng miếng kiếng bể thay dao, cắt dây nhau rún cho cháu, Thằng con trai tôi khóc chào đời chẳng bao lâu thì đứa con gái đầu lòng của tôi lại trút hơi thở cuối cùng. Rồi vài tiếng đồng hồ sau khi chào đời, không một mảnh vải che thân, không sữa bú, và có lẽ vì bị nhiễm trùng, vì cắt nhau bằng kiếng, nên cháu đã bị kinh phong giật rồi chết. Tôi chưa kịp đặt tên cháu thì cháu đã ra đi theo chị của cháu rồi!

Vài người lớn tuổi trên tàu đề nghị với vợ chồng tôi nên đặt tên cho cháu trước khi thả thi hài xuống biển. Chúng tôi nghe và đặt tên cho cháu là Lý Bửu Long. Tôi đau xót nhìn người ta thả xác hai con xuống biển, và âm thầm khấn xin hai con là Lý Tú Anh và Lý Bửu Long phù hộ cho cha mẹ cũng như mọi người trên tàu được đến bến bờ bình an.

Tôi không bao giờ quên được hình ảnh đau thương tột cùng đó trong quãng đời còn lại này, quãng đời mang nặng tâm tình người mẹ luôn dành hết tấm lòng, hết tình thương cho con, lúc nào cũng yêu thương những khúc ruột mang nặng đẻ đau của mình. Tôi có thể chết để cho con tôi được sống, tôi có thể đói để cho con tôi được no, tôi có thể khổ để cho con tôi được sướng, thế mà bây giờ tôi chịu bó tay nhìn con chết và nhìn thi hài con lênh đênh trên biển cả. Lúc ấy chỉ có trời đất mới thấm thía và hiểu được lòng tôi xót xa như thế nào! Tôi sống như xác không hồn, chẳng còn vui sướng nào trên thế gian này làm tôi quên đi hai đứa con đã chết đó.

Rồi khoảng nửa giờ sau thì chiếc tàu của chúng tôi cũng chết máy luôn. Tay lái tàu đành cột lại cẩn thận để mặc cho sóng gió muốn đưa con tàu về đâu cũng được. Nhờ vậy mà chồng tôi được nghỉ ngơi chút ít, chứ không làm sao sống nổi? khi thân xác chỉ còn da bọc xương, sức khoẻ gần như kiệt quệ. Tôi nhớ ngoài những người hiểu lầm, quyết làm khó dễ chồng tôi, còn chị Lý Diêm Ken là vợ của anh chủ tàu, đã không ngần ngại nói sự thật để đính chính và bênh vực chồng tôi. Khi biết rõ ràng vợ chồng tôi cũng phải bỏ tiền ra để đi và phải làm tài công bất đắc dĩ thì mọi người đều xin lỗi và thương chia sự bất hạnh của hai cháu qua đời. Tôi hết lòng biết ơn chị Ken, đã không sợ sệt để nói ra sự thật. Nhưng chúng tôi cũng rất buồn vì một số bạn bè đã im hơi lặng tiếng vì sợ liên lụy, có vài người lại a dua theo đám khách hiểu lầm để gây thêm áp lực xấu, bắt chồng tôi phải sống chết theo tay lái tàu.

Sau khi tàu chết máy vài hôm, thì chị Ken và cháu Cảo-Kía cũng qua đời vì kiệt lực, và vài ba người nữa cũng đã chết. Tình trạng sức khỏe của tôi cũng quá yếu. Tôi lúc tỉnh lúc mê, vì sinh nở đã ba bốn hôm mà chẳng thuốc men, và chẳng ăn uống gì, tệ hơn nữa là nhau vẫn còn nằm trong bụng. Có người kể lại là tôi đã mê man mấy ngày liền.

Sau cùng trong cơn mê dài này, tôi đã thấy một người phụ nữ bận đồ trắng, dùng tay xoa lên ngực tôi và đánh thức tôi dậy.

Khi tỉnh lại, tôi thấy có vật gì nằng nặng đè lên ngực. Sờ thử thì thấy là một xâu chuỗi hạt màu xanh lá mạ với tượng một người phụ nữ. Lúc đó gia đình tôi chưa vào đạo nên tôi chỉ biết xâu chuỗi của người công giáo mà thôi. Tôi thều thào hỏi: “Cái này của ai làm rớt?” Không ai trả lời. tôi nhờ một anh bên cạnh truyền tay mọi người trên tàu coi của ai đánh rớt. Nhưng chẳng ai nhận và họ hoàn trả lại tôi. Tôi nghĩ xâu chuỗi này là của một trong những người có đạo trên tàu, thấy hoàn cảnh sinh nở và khốn khó của tôi, đã để xâu chuỗi trên ngực tôi trong lúc tôi mê man, mong người phụ nữ trong xâu chuỗi giúp đỡ cho tôi. Cuối cùng tôi đeo xâu chuỗi vào cổ mình. Khoảng vài ba phút sau, tôi nghe trong bụng như có gì dồn lên, tôi dùng tay đè nó xuống. Thế là nhau còn ứ trong người tôi tự động tuôn ra ngoài. Tôi cảm thấy khoẻ lại thật nhiều. Có thể nhờ xâu chuỗi mà sự may mắn này đến với tôi chăng? Nâng niu và ngắm nhìn người phụ nữ trên xâu chuỗi, tôi thấy bà có nét dịu hiền dễ thương. Tuy chưa biết bà là ai, tên gì, mà tôi được may mắn. Bây giờ tôi thực sự xin bà hãy đưa dẫn chúng tôi đến bến bờ bình an…

(còn tiếp)

Huỳnh Thị Quang

Boston, Massachusetts 

Xuanha.net

Bình luận
error: Content is protected !!