Icon Collap
...
Trang chủ / Hậu quả của các biện pháp tránh thai

Hậu quả của các biện pháp tránh thai

Trước thực trạng dân số trên thế giới càng ngày càng gia tăng, kế hoạch hóa gia đình bằng các biện pháp tránh thai như thuốc tránh thai khẩn cấp, sử dụng bao cao su, đặt vòng, triệt sản, xuất tinh ngoài,… đang trở thành một vấn nạn nhức nhối đối với con người ngày hôm nay. Những từ ngữ hoa mỹ đó đã che lấp phần không nhỏ về hậu quả và điều không nên của các biện pháp tránh thai nhân tạo. Nhiều người đã sử dụng một cách mù quáng và không nhận ra tác hại khôn lường của những biện pháp đó. Vậy hậu quả của những biện pháp tránh thai nhân tạo đó là gì? Tại sao Giáo Hội lên án và khuyên con cái mình không được phép sử dụng những biện pháp tránh thai đó?

Hậu quả của các biện pháp tránh thai

1. Thuốc tránh thai khẩn cấp

Thuốc tránh thai khẩn cấp còn được gọi là thuốc tránh thai ngày hôm sau, thuốc có tác dụng ức chế rụng trứng nơi người phụ nữ, và trường hợp rụng trứng, thuốc sẽ làm thay đổi cấu trúc lớp niêm mạc tử cung để ngăn cản trừng này làm tổ. Chính qua thời khắc thụ tinh, lập tức hợp tử đã có khả năng trở thành một nhân vị, và do vậy, về mặt luân lí ta không thể xem nhẹ hoặc coi thường tiềm thể đó.. Nên nó còn liên quan đến điều răn thứ năm là giết người. Khi dùng thuốc tránh thai như thế, là phạm tội dùng phương pháp ngừa thai nhân tạo, một phương pháp Giáo Hội lên án, vì phương pháp này ngăn cản đôi hôn phối đạt tới mục đích của việc kết hợp vợ chồng là hướng tới việc sinh sản con cái.

2. Đặt vòng: mời bạn bấm vào link sau để đọc bài viết : Sự thật về chiếc vòng tránh thai

2. Bao cao su

Sau một thời gian chồng đeo bao, vợ sẽ mất hết cảm giác, trở nên lãnh đạm dù có làm gì đi nữa. Hố ngoại tình nằm chính ở đây. Tính dục rất quan trọng đối với người đàn ông, nên khi người phụ nữ này không làm cho họ thỏa mãn, họ sẽ đi tìm những người khác thay thế.

Bài đọc thêm: Thư gửi Mẹ

3. Triệt sản

Những phương cách triệt sản cho dù là buộc hay cắt ống dẫn trứng, hay cắt tinh quản không phải là những phương thế tạm thời tạm thời hoặc ngừa tránh thai, đúng hơn chúng nhằm tránh sinh đẻ thường kỳ. Ngay cả những kĩ thuật này có thể cho phép tháo gỡ để có thể có con trở lại, nhưng không có gì để đảm bảo việc trở lại suôn sẻ đó. Và phần đông những người chọn phương pháp này đều được cho biết tính chất trường kỳ và khó đảo người của chúng. Theo truyền thống, Giáo Hội Công giáo phân biệt giữa triệt sản “trực tiếp” và triệt sản “gián tiếp”. Luân lý Giáo Hội Công giáo không thừa nhận triệt sản trực tiếp, được hiểu như những phương thức đặc biệt ngăn chặn hướng thẳng đến sự thụ thai, như nó là mục tiêu nhắm thẳng đến, hay đây là phương tiện cho một mục tiêu khác. Vì dụ Giáo Hội chống lại triệt sản vì lý do không muốn có con nữa (chỗ này mục tiêu là chính sự thụ thai) hoặc khi người ta đề nghị cho ai đó sử dụng triệt sản để ngăn ngừa mang thai vốn được phỏng đoán là sẽ gây nguy cơ đến sự sống hay sức khỏe của phụ nữ đang mắc bệnh tim hay đau thận (sự thụ thai ở đây trở thành phương tiện cho một mục tiêu khác đó là để bảo vệ sức khỏe cho người phụ nữ). Tóm lại, triệt sản trực tiếp đồng nghĩa với việc có ý định ngừa thai rõ rệt. Ngược lại, Giáo Hội cho phép triệt sản gián tiếp như một đòi hỏi cần thiết để duy trì sự sống cho người phụ nữ nào đó. Ví dụ bị ung thư buồng trứng hay tử cung, hoặc tinh hoàn phải cần cắt đi. Ý định ở đây rõ ràng là vì lý do chữa bệnh, chứ không phải ngừa thai, hiển nhiên đây là sự kiện bất khả kháng, ngoài ý muốn của bệnh nhân. Có lẽ cách hay nhất để phân biệt giữa triệt sản gián tiếp hoặc chữa bệnh và triệt sản trực tiếp bị cấm đoán bằng cách đặt câu hỏi như sau: Liệu sự triệt sản được đề nghị còn được xem là đòi hỏi y khoa buộc phải có hay được khuyên bảo nên cắt trong khi việc vô sinh hay tránh thụ thai không còn là vấn đề trong đời sống của họ nữa. Thí dụ như người đó đã quyết định chọn bậc sống độc thân hoặc đã qua lứa tuổi mang thai hay có con? Nếu câu trả lời ở thế xác định thì đây rõ rệt cho thấy rằng, họ không có ý định chống thụ thai trong việc sửu dụng phương pháp triệt sản và do vậy, được phép sử dụng theo luân lý.

Bài đọc thêm: Vấn đề sống thử của giới trẻ ngày nay

5. Xuất tinh ngoài

Xuất tinh ngoài – nghĩa là khi đang giao hợp mà dương vật được rút ra khỏi âm đạo ngay trước lúc xuất tinh – là một trong những hình thức ngừa thai đã có từ xa xưa, vốn được gọi là tội Ô-nan. Dĩ nhiên tính hiệu quả của phương cách này phụ thuộc phần lớn vào sự tự chủ, có khả năng kiểm soát của chính đương sự. Tuy nhiên, giả sử cho là người đàn ông có khả năng tự chủ đi chăng nữa, nhưng khoa học đã chứng minh cho thấy rằng: trong khi giao hợp thì đã có một số tinh trùng (kèm theo một tí tinh dịch ) đã xuất ra trước, ngay cả trước khi người đàn ông đạt đến điểm cực khoái và phóng tinh. Trong trường hợp này vẫn có thể thụ thai cho dù phần lớn tinh trùng đã để chảy ra ngoài âm hộ người nữ. Hơn nữa, ngoài tính chất ít có hiệu quả trên đây, sư quan hệ giữa chừng nêu lên mối quan tâm luân lý đặc thù. Trong cố gắng thực hiện sự tự chủ, hầu như người chồng cảm nhận sự căng thẳng tâm lý bởi phải để tâm rút (dương vật) ra cho kịp thời kẻo bị vỡ kế hoạch. Như vậy người chồng chú ý nhiều đến mình hơn là làm cho vợ mình vui thú yêu thương, do vậy người vợ thường cảm thấy dồn nén do đã không đạt tới sự thỏa mãn cao độ. Kết cuộc cả hai đều không thăng hoa khi quan hệ, không thỏa mãn và đâm ra chán nản.

Nguồn: svconggiao.net

Bình luận
error: Content is protected !!